Thiền quán hay thiền Minh sát, tiếng Phạn là Vipasyana (Pàli: Vipassana). Vipasyana có nghĩa là thấy mọi sự vật đúng như bản chất của chúng. Quán là xem xét thực tướng của mọi sự vật bằng ánh sáng tuệ giác phát sinh từ tâm. Thiền quán là tĩnh tâm tư duy, quán chiếu chân lý, là ý thức một cách rõ ràng những gì đang xảy ra trong bốn lãnh vực thân, thọ, tâm và pháp (Tứ niệm xứ).
Thiền quán là nhìn sâu, nhìn kỹ để chứng nghiệm thực tại, tức thấy được đặc tướng của các pháp là vô thường, vô ngã, tương tức và Niết bàn. Khác với thiền chỉ, thiền quán không cần phải chọn những đề mục đặc biệt để tập trung chú tâm, mà chỉ cần nhìn, quán sát với chánh niệm để hiểu rõ sự vật như nó đang là.
Có nhiều cách thực hành thiền quán, như quán Tứ niệm xứ, quán Từ bi, quán Ngũ uẩn, quán Duyên khởi… Quán Tự Tại là danh hiệu vị Bồ tát thực tập thiền quán thành công khi nhìn sâu vào bản chất của năm uẩn và thấy được đặc tướng duyên sanh vô ngã của nó, cho nên đã vượt qua được khổ đau, ách nạn. Cái thấy đó là tuệ giác Bát nhã, có khả năng chuyển hóa, đốt cháy mọi khổ đau, phiền não.
Chúng ta có thói quen nhìn sự vật hiện tượng một cách hời hợt, nên không thấy được chân tướng của mọi sự vật như là chúng thực sự hiện hữu, và vì vậy thường bị cái vẻ bề ngoài của chúng đánh lừa (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Đó là nguồn gốc của mọi khổ đau, phiền não. Khi thực tập thiền quán, chúng ta nhìn sâu vào lòng sự vật nhằm quán chiếu, thẩm sát để chứng nghiệm, thấy rõ, hiểu sâu và hiểu đúng thực chất của sự vật là duyên sinh, vô thường, vô ngã. Đây là cái thấy rất sâu sắc và đầy tuệ giác. Thấy rõ mọi sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh tồn và hoại diệt; bản chất của mọi sự hiện hữu đều tương quan nhân quả, mọi đổ vỡ mất mát thương đau đều có nguyên do của nó… Nhờ cái thấy và hiểu này mà chúng ta cởi bỏ được những mê lầm chấp trước và đạt tới trạng thái an lạc, tự do, giải thoát.
Kinh Kim Cương đề nghị chúng ta thực tập thiền quán bằng cách: “Nhìn một cách sâu sắc để thấy hết thảy các pháp đều do duyên sinh, tất cả đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như sương mai, như ánh chớp”. Khi thực tập cái nhìn như vậy, mọi tham ưu ở đời đều bị thiêu rụi, hành giả đạt được trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, và dần hướng đến giác ngộ giải thoát: “Nhờ hiểu biết như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: ‘Ta đã giải thoát’. Ta đã biết: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành. Việc cần làm đã làm. Không còn trở lui trạng thái này nữa’. Này Aggivessana, đó là Minh thứ ba, Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt minh sanh, mê tối diệt ánh sáng sanh, do ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần” (Kinh Trung Bộ).
Có hai loại Thiền quán:
a. Đối trị quán: Như quán bất tịnh đối trị tham dục, quán từ bi đối trị giận hờn, quán giới phân biệt đối trị chấp ngã, quán sổ tức đối trị loạn động v.v...
b. Chánh quán: Quán các pháp không tướng đều do nhân duyên sanh, vì nhân duyên sanh nên thể tánh các pháp là Không, tức là thật tướng. Nhờ thấy rõ các đối tượng quán đều không nên chủ thể quán tự nhiên thanh tịnh.
Thiền quán không hạn chế đối tượng quán mà hướng tâm vào những trạng thái luôn luôn biến đổi của tâm và thân, ghi nhận tất cả mọi hiện tượng đang xảy ra. Công phu thực hành thiền quán là thẩm sát trong chánh niệm bất luận những gì được tri giác nhưng đồng thời buông bỏ tất cả, không bám níu gì hết. Bí quyết của thiền quán là chủ thể quán chiếu với đối tượng quán chiếu trở thành nhất như. Nghĩa là ranh giới giữa chủ thể và đối tượng không còn, bất nhị.
Sự tương quan giữa Thiền chỉ và Thiền quán
Trong thiền chỉ, hành giả chọn và vận dụng một trong số các môn (giác quan), như nhãn môn hay ý môn để tập trung, còn các môn khác thì không dùng. Nhưng trong thiền quán, hành giả không nhất thiết chọn một đề mục nào mà vận dụng cả sáu môn cùng với sáu đối tượng của nó.
Trong thiền chỉ, khi hành giả chọn đề mục, dùng tâm quán niệm đề mục ấy cho đến lúc tâm có đủ năng lực nhiếp phục, hóa giải năm triền cái, năm Thiền chi dần dần hiện rõ, tâm an trụ vững trong đề mục và cuối cùng chứng đắc các tầng thiền (Bát định). Năm triền cái đối nghịch với Thiền chỉ vì là chướng ngại, cản trở tâm an trụ nhưng không đối nghịch nhiều với Thiền minh sát. Niệm về năm triền cái, tức lấy sự hay biết năm chướng ngại tinh thần này làm đề mục Thiền quán, là một phần của niệm pháp, một trong bốn lãnh vực quán niệm.
Ðối tượng của Thiền minh sát là thực thể pháp trong hiện tại, những gì thật sự đang xảy diễn trong khoảnh khắc hiện tại. Ðối tượng của Thiền minh sát là Tứ niệm xứ. Các đối tượng chế định, do hành giả tự tạo như cảm giác hay hình ảnh v.v... không thể dùng làm đối tượng Thiền minh sát, chỉ dùng làm đối tượng của Thiền chỉ.
Dầu Thiền chỉ và Thiền minh sát có sự khác biệt nhau song Thiền chỉ có thể làm nền tảng cho Thiền minh sát như trường hợp Ðức Phật. Ngài tiến cao đến mức cùng tột của Thiền chỉ là Phi tưởng phi phi tưởng rồi xả thiền, quán chiếu thân và tâm Ngài, dùng chi thiền hỷ, lạc v.v... làm đối tượng và thấy rõ vô thường, khổ, vô ngã. Ðó là Thiền minh sát dùng Thiền chỉ làm nền tảng:
Như chim có hai cánh
Thiền tập có chỉ quán
Hai cánh chim nương nhau
Chỉ và quán song hành.
Kết luận
Thiền là phương thức thực tập cốt tủy của đạo Phật: “Này các thầy Tỷ kheo, con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua mọi sầu não, khổ, ưu, thành tựu chánh lý, hiện chứng Niết bàn là con đường này: Đó là bốn niệm xứ” (Kinh Tứ Niệm Xư).
Thiền chỉ là dừng lại. Thiền quán là nhìn sâu. Đây là hai phương pháp giúp hành giả đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại, cái thấy này có khả năng giải phóng cho mình ra khỏi sợ hãi, lo âu, phiền muộn, chế tác chất liệu trí tuệ và từ bi, nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho mình và cho kẻ khác nhiều thảnh thơi và an lạc. Bản chất của thiền định là niệm, định và tuệ, ba nguồn năng lượng được chế tác trong khi thực tập. Ta thực tập thiền không phải chỉ trong tư thế ngồi mà còn trong các tư thế khác như tư thế đi, tư thế đứng, tư thế nằm, trong những lúc làm việc như giặt áo, bổ củi, gánh nước, tưới rau hoặc lái xe.
Bất cứ trong tư thế nào, bất cứ đang làm gì và ở đâu mà trong thân tâm mình có được ba loại năng lượng niệm, định, tuệ là mình đang thực tập thiền. Sự thực tập này, nếu được chỉ dẫn đúng mức, có thể đem lại sự thoải mái và an lạc ngay trong lúc thực tập. Thực tập thiền có tác dụng nuôi dưỡng và trị liệu cho cả thân và tâm, đem lại nguồn vui sống cho người thực tập và cho những người xung quanh. Không phải chỉ đi vào chùa hoặc thiền viện mới thực tập được thiền. Sống trong xã hội, bất cứ làm gì, ở đâu ta cũng có thể tập thiền được.




Là một, như gắn liền, mềm như nước